Chuyên đề 1:
ĂN ĐẬU NÀNH CÓ ĐỘC KHÔNG?
BS. PHẠM NẮNG CƯỜNG
LTS:
Đã từ lâu, các chế phẩm của đậu nành như đậu phụ, sữa... trở thành
thực phẩm quen thuộc với chúng ta. Các chế phẩm này ngon, hợp khẩu vị,
nhất là nó được xem như loại thực phẩm lành tính chỉ có lợi cho sức
khỏe, hoàn toàn vô hại. Thế nhưng, bài viết dưới đây của BS. Phạm Năng
Cường (dựa theo một tài liệu khoa học của nước ngoài) lại cho rằng dùng
đậu nành có hại như: có thể làm nam giới vô sinh, dễ gây ung thư...
Tòa soạn xin giới thiệu bài viết này để bạn đọc tham khảo và mong các
chuyên gia về dinh dưỡng có ý kiến.
Tôi mới nhận được tài liệu
về dinh dưỡng trị liệu do BS Nguyễn Xuân Thuyên - người Mỹ gốc Việt
gửi tặng, trong đó có nêu rõ cái lợi và cái hại của đậu nành như sau:
1. Về mặt lợi
BS
đã nêu rằng: Trên thế giới người ta đã thống kê được trên 1.000 loại
đậu nành gồm đủ cỡ (to nhỏ) và sắc màu (đỏ, vàng, xanh, nâu và cả đen).
Lại có ghi: Đậu nành ít chất bột, nhiều đạm và dầu, giá rất rẻ được
dùng làm thực phẩm chế biến đủ loại như đậu phụ, dầu đậu nành, tương
sữa đậu nành, bột đậu nành, sốt đậu nành và miso... Đậu nành còn được
chế biến thành bơ margarines, kể cả xà bông và plastic. Nước Mỹ hiện
dẫn đầu thế giới về xuất cảng và sản xuất, chế biến đậu nành. Trước đây
các nhà khảo cứu đã chỉ ra lợi ích của đậu nành như làm giảm
cholesterol trong máu do có 4 chất là: chất xơ, chất saponins, chất
phytosterols và cả chất lecithin cùng lượng nhỏ vitamine E, đậu nành còn
là chất chống ung thư nhờ các chất như: protease inhibitors, trypsin
inhibitor, isoflavones, polyphenols, phytate, và methionine.
II. Về mặt độc hại
Nhưng
đậu nành cũng độc hại không kém, nhất là đậu phụ và tàu hũ (óc đậu)
hoặc các sản phẩm làm đông đặc theo phương pháp Tây Âu ví dụ: enzyme
inhibitors làm ngăn cản hoạt động của trypsin và các enzymes khác cần
cho hấp thu chất protein, làm thiếu hụt chất đạm nghiêm trọng có thể
gây viêm tụy (trên súc vật) và ung thư(?) Nó còn có hóa chất
hemaglutinin làm cho hồng cầu bị vón và giảm hấp thu dưỡng khí. Đậu
nành còn có lượng phytic acids cao, thường có ở vỏ hạt làm cản trở sự
hấp thu các chất khoáng rất quan trọng như: calcium, mangesium, sắt,
kẽm qua ruột (thường thấy ở những người ăn chay trường). Trong khi chế
biến, các nhà sản xuất thường ngâm đậu nành trong dung dịch kiềm
(alkaline) sau đó đun ở 115oC trong nồi áp suất. Cách này làm chất đạm
khó tiêu hóa được và chất phytate trong sữa đậu nành ngăn cản các chất
khoáng vào máu, nguy hiểm hơn là chất kiềm dùng để ngâm còn có mầm ung
thư lysinealine, giảm chất cystine trong đậu nành đưa đến vô dụng các
chất đạm nếu không ăn thêm các chất thịt, cá, trứng và sản phẩm làm từ
sữa động vật. Sữa đậu nành cho trẻ em cùng với chất trypsin inhibitors
có chứa lượng cao nhất phytate khiến cho trẻ bị thiếu kẽm. Còn chất
nhôm lại cao hơn gấp 10 lần so với sữa thường và 100 lần so với sữa
chưa chế biến. Tình trạng dị ứng do ăn đậu nành rất thường gặp, vả lại
trong sữa đậu nành cho trẻ em còn thiếu chất cholesterol là chất thiết
yếu cho sự phát triển não bộ và hệ thống thần kinh. Điều làm tôi sửng
sốt trong phần kết thúc, mục Bạn có biết? tác giả ghi nguyên văn:
- Đậu nành có thể làm cho
nam giới vô sinh (ít tinh trùng) vì nó có chứa estrogen. Chúng tôi đề
nghị các ông phải ngưng ăn đậu nành trước 3 tháng nếu muốn có con(?)
- Phải chăng việc chế biến đậu nành còn quan trọng hơn cả thành phần cấu tạo của nó(?)
- Phải chăng đậu nành chỉ tốt với người cao tuổi còn tuổi trẻ thì không(?)
Chắc sẽ có quý vị hỏi: Liệu tác giả đó muốn gì? Và tài liệu kia ra sao? Xin
thưa, tác giả đó chỉ hoan nghênh cách chế biến cổ truyền có lên men
như ông cha ta đã làm, ví dụ làm tương chẳng hạn, còn các phương pháp
sản xuất công nghiệp, nhất là không cho lên men thì đả phá. Tác giả
cũng cho rằng không khuyến khích với trẻ em và người ăn chay vì đều
thiếu một số chất dinh dưỡng cần thiết. Đây là tài liệu chính thống
được phổ cập tại Mỹ cho 2 cộng đồng người Việt và người Mỹ được Nhà
nước công nhận và cho phép. Theo ý tôi, có lẽ lâu nay ta
ít lưu tâm tới các cách chế biến (tốt hoặc xấu) mà người giải đáp phải
là các nhà khoa học, trong đó có Viện dinh dưỡng - Bộ Y tế VN chúng
ta. Mong sớm có được hướng dẫn về chuyên mục này, vì sản phẩm chế từ
đậu nành ở ta đang phát triển mạnh và những quảng cáo giật gân về nó
cũng không thiếu trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Xác định
cách nào là đúng và có lợi cho đối tượng nào, hoặc ngược lại, âu cũng
là góp phần nâng cao dân trí và cải thiện thực tế sức khỏe của nhân dân
ta, vì đậu nành ở ta không hiếm, lại rẻ và dễ phổ cập.
Chuyên đề 2:
.Những điều nên và không nên trong
sử dụng kháng sinh.
Tác giả : TS. DS. NGUYỄN HỮU ĐỨC (Trường Đại học Y Dược - TPHCM)
Cơ
thể ta có một hệ thống miễn dịch (gồm các tế bào bạch cầu, kháng thể…)
luôn sẵn sàng chống trả, tiêu diệt các vi sinh vật gây bệnh xâm nhập.
Khi các vi sinh vật gây bệnh xâm nhập và phát triển quá nhanh, quá
nhiều, vượt khỏi sự kiểm soát của hệ thống miễn dịch, sẽ làm ta mắc
bệnh nhiễm trùng. Có 2 loại vi sinh vật gây bệnh phổ biến là siêu vi
(còn gọi là virus) và vi khuẩn. Khi mắc bệnh nhiễm trùng, ta phải dùng
kháng sinh để điều trị, nhưng kháng sinh chỉ có tác dụng trị những bệnh
nhiễm do vi khuẩn chứ đa phần không trị được bệnh nhiễm do virus. Khi
sử dụng kháng sinh, chúng ta nên lưu ý một số vấn đề nhằm phát huy tác
dụng cao nhất của thuốc.
NHỮNG VẤN ĐỀ NGƯỜI SỬ DỤNG KHÁNG SINH CẦN TUÂN THỦ
Nên biết kháng sinh là loại thuốc gì?
Kháng
sinh là những hợp chất trước đây có nguồn gốc thiên nhiên (tức được ly
trích từ các vi sinh vật như vi nấm), và nay được tổng hợp, có tác
dụng ức chế sự phát triển hoặc tiêu diệt các vi khuẩn gây bệnh. Kháng
sinh có tác dụng rất tốt nếu được sử dụng đúng theo chỉ định, hướng dẫn
của bác sĩ điều trị. Còn nếu sử dụng không đúng, có thể sẽ gây nhiều
tác hại khôn lường.
Kháng sinh cho tác dụng như thế nào?
Kháng sinh chống lại vi khuẩn bằng cách làm hư hại thành
phần cấu tạo của chúng như lớp vỏ bảo vệ, màng trao đổi chất v.v...
Tuy nhiên, trong phương diện điều trị, người ta quan tâm đến hai loại
tác dụng: tác dụng diệt khuẩn và tác dụng kìm khuẩn
(kìm khuẩn có khi còn được gọi là hãm khuẩn, trụ khuẩn, tĩnh khuẩn).
Kháng sinh diệt khuẩn có tác dụng giết chết vi khuẩn, còn kháng sinh
kìm khuẩn chỉ làm cho vi khuẩn ngưng phát triển, không sinh sản chứ
không bị tiêu diệt. Kháng sinh kìm khuẩn được dùng khi cơ thể người
bệnh còn sức đề kháng, hệ thống miễn dịch còn đủ mạnh để tiêu diệt vi
khuẩn đã bị thuốc làm cho yếu đi. Nếu cơ thể người bệnh quá yếu, bắt
buộc phải dùng các loại kháng sinh diệt khuẩn. Chỉ có thầy thuốc mới
biết kháng sinh nào là diệt khuẩn và kháng sinh nào là kìm khuẩn, cũng
như việc dùng mỗi loại trong từng trường hợp cụ thể.
Những loại nhiễm trùng nào cần dùng kháng sinh?
Như đã trình bày, kháng sinh chỉ được dùng để điều trị bệnh nhiễm khuẩn chứ không trị được những bệnh nhiễm virus (như cảm cúm). Các
bệnh nhiễm khuẩn thường gặp là viêm nhiễm tai mũi họng (như viêm
xoang, viêm tai giữa), viêm nhiễm đường hô hấp (viêm phế quản, viêm
phổi), viêm đường tiết niệu, nhiễm trùng da v.v...
Kháng sinh có thể gây ra các tác dụng phụ
Các tác dụng phụ do kháng sinh gây ra có thể chia làm 3 loại:
- Dị ứng: Nhẹ là nổi mề đay, ban đỏ, ngứa. Nặng có thể dẫn đến sốc phản vệ gây tử vong.
- Nhiễm độc các cơ quan:
Như gây độc đối với gan, thận (Tetracyclin, Sulfamid), các tế bào máu
(Cloramphenicol), thần kinh thính giác (Streptomycin, Gentamycin), xương
răng (Tetracyclin làm hại răng trẻ em)...
- Loạn khuẩn đường ruột dẫn đến tiêu chảy: Đây là tác dụng phụ thường gặp, đối với trẻ có thể gây mất nước nghiêm trọng, hoặc thiếu vitamin do tiêu chảy bởi kháng sinh.
Hiện tượng đề kháng kháng sinh
Đề kháng kháng sinh là tình trạng do sử dụng kháng sinh không đúng (dùng
không đủ liều, không đủ thời gian) nên không tiêu diệt được hoàn toàn
vi khuẩn, một số còn sống sót sẽ có khả năng đề kháng lại kháng sinh đã
sử dụng, do đó kháng sinh đã sử dụng sẽ không còn tác dụng ở những lần
điều trị sau.
Nên sử dụng kháng sinh theo sự chỉ định của bác sĩ điều trị
Đặc
biệt đối với trẻ em, khi nghi ngờ trẻ bị bệnh do nhiễm khuẩn, nên đưa
trẻ đến bác sĩ để được khám và chỉ định thuốc. Chỉ có bác sĩ mới biết
rõ khi nào cần sử dụng kháng sinh, chọn lựa loại gì và hướng dẫn dùng
đúng thuốc, đúng cách, đủ liều, đủ thời gian. Nên lưu ý để tránh hiện
tượng đề kháng kháng sinh đã nêu trên, phải dùng thuốc đúng liều lượng
và đủ thời gian như bác sĩ đã chỉ định.
NHỮNG ĐIỀU CẦN TRÁNH
Không nên tự ý sử dụng kháng sinh
Ở
nhiều nước trên thế giới, bệnh nhân chỉ có thể mua kháng sinh ở nhà
thuốc khi có đơn của bác sĩ. Ở nước ta, Bộ Y tế có quy định một số rất
ít kháng sinh được mua không cần đơn, nhưng nói chung tình trạng tự ý
sử dụng kháng sinh vẫn còn phổ biến. Nhiều kháng sinh thuộc loại rất
mới, chỉ dùng hạn chế trong bệnh viện lại bị lạm dụng bừa bãi. Xin được
nhắc lại, chỉ có bác sĩ điều trị mới có đủ thẩm quyền xác định loại
bệnh nhiễm và loại kháng sinh điều trị thích hợp.
Không nên ngưng sử dụng kháng sinh nửa chừng hoặc sử dụng kéo dài
Thông thường, một số kháng
sinh dùng đủ liều cho cả đợt điều trị phải mất từ 7-10 ngày, thậm chí
có thể kéo dài hơn tùy theo loại bệnh và tiến triển bệnh. Ta phải theo
đúng chỉ định dùng thuốc, tức là dùng đúng liều,
đủ thời gian theo đơn thuốc của bác sĩ. Đừng vì thấy bệnh có vẻ đỡ mà
ngưng dùng thuốc, sẽ làm vi khuẩn không bị tiêu diệt hết trỗi dậy, vừa
gây hại cho chính bản thân do bệnh tái phát, vừa ảnh hưởng đến cộng
đồng vì làm gia tăng sự đề kháng kháng sinh. Còn nếu sử dụng kéo dài có
thể dẫn đến những tai biến nguy hiểm.
Không nên dùng lại kháng sinh đã dùng còn thừa
Rất nhiều kháng sinh quá hạn dùng có độc tính rất cao (như Tetracyclin gây độc cho thận).
Không nên chỉ người khác sử dụng kháng sinh khi thấy bệnh na ná giống mình
Bởi
vì triệu chứng bệnh có vẻ giống nhưng nguyên nhân gây bệnh có thể khác
nhau. Chẳng hạn như sốt không phải là triệu chứng của mọi bệnh nhiễm
khuẩn. Hơn nữa, một kháng sinh có thể thích hợp cho người này nhưng lại
không thích hợp, thậm chí còn gây tai biến nặng nề cho người khác.
Chuyên đề 3:
.Vai trò của vitamin & khoáng chất
đối với mái tóc của bạn.
Tác giả : BS. PHẠM THỊ KIM ANH (BV. Da liễu TPHCM)
Cũng
như các bộ phận khác của cơ thể, mái tóc chúng ta rất cần được nuôi
dưỡng và chăm sóc tốt. Ngoài yếu tố di truyền là vấn đề cơ bản để quyết
định màu sắc, độ dày mỏng, số lượng sợi tóc, độ bền chắc thì nguồn
dinh dưỡng cho tóc (được cung cấp qua các thức ăn hàng ngày) cũng là
yếu tố quan trọng, góp phần giúp chúng ta có một mái tóc óng ả và khỏe
mạnh. Ngoài ra những yếu tố bên ngoài do chúng ta gây ra như quá lạm
dụng hóa chất: dùng dầu gội không thích hợp, lạm dụng thuốc nhuộm tóc,
uốn tóc, duỗi tóc hoặc dùng các loại gel, mouse, keo xịt tóc để tạo
dáng cũng gây ảnh hưởng xấu cho tóc. Bài viết sau xin giới thiệu vai
trò của chế độ ăn, chế độ dinh dưỡng cũng như các loại vitamin đối với
mái tóc của bạn.
VAI TRÒ CỦA MÁI TÓC
Mái
tóc đẹp là niềm tự hào của mọi người, đặc biệt là đối với phụ nữ. Ông
bà ta đã có câu "Cái răng, cái tóc là góc con người", chứng tỏ tầm quan
trọng của tóc không phải nhỏ. Mái tóc cũng là một trong những yếu tố
quyết định dáng vẻ của mỗi người. Chúng ta có thể nhận ra bạn bè, người
thân qua kiểu dáng cũng như các đặc điểm của tóc; Mái tóc đẹp làm ta
trở nên duyên dáng hơn, đặc biệt đối với các phụ nữ. Với đà tiến bộ của
xã hội ngày nay, nhiều người còn cho rằng một mái tóc đẹp sẽ giúp
chúng ta dễ thành công hơn trong nghề nghiệp. Thông thường mái tóc của
chúng ta có khoảng 200.000-400.000 sợi. Số
lượng tóc nhiều hay ít còn tùy thuộc vào chủng tộc, yếu tố di truyền
của ông bà, cha mẹ. Ðể giữ gìn và luôn có một mái tóc đẹp, chúng ta cần
bảo đảm nguồn nuôi dưỡng tóc luôn được dồi dào thông qua các thức ăn
hàng ngày. NHỮNG CHẤT DINH DƯỠNG CẦN THIẾT CHO TÓC Các chất dinh dưỡng
cần thiết cho tóc cũng chính là những thức ăn hàng ngày chúng ta đưa
vào cơ thể. Bao gồm 4 nhóm thức ăn chính gồm:
1. Sữa và các sản phẩm từ sữa. 2. Thịt, cá. 3. Các loại đậu, hạt. 4. Rau, củ và trái cây. Các
thành phần thức ăn này sẽ giúp cơ thể tạo ra đầy đủ calorie và
protein, tạo khả năng cân bằng trong việc sản xuất năng lượng từ thức
ăn, cung cấp năng lượng cho các phản ứng hóa học khác bên trong cơ thể.
Do đó nếu chúng ta có chế độ ăn hàng ngày không đầy đủ protein hoặc
thiếu năng lượng trong thời gian dài thì có thể bị rụng tóc. Người
ta nhận thấy một số người dùng chế độ ăn kiêng để giảm cân cấp tốc sẽ
làm giảm năng lượng cơ thể, đồng thời nguồn cung cấp vitamin và chất
khoáng cũng giảm theo; Protein cung cấp cho cơ thể cũng suy giảm nên dễ
bị rụng tóc hơn người bình thường. Do đó họ cần dùng thêm viên
thuốc bổ đa sinh tố để bổ sung cho chế độ ăn. Với những trường hợp dùng
chế độ giảm cân bằng cách dùng thuốc lợi tiểu (hoặc dùng amphetamin)
như chất làm giảm sự ngon miệng, cũng có thể gây tác dụng đảo ngược ảnh
hưởng đến da và tóc. Ngoài tác dụng trực tiếp trên thận, thuốc lợi
tiểu còn có thể gây ra tình trạng rối loạn nước - điện giải làm cơ thể
mất nhiều nước, kéo theo mất các vitamin nhóm B và những khoáng chất
như calci, magne, kẽm. Tất cả những yếu tố này gây xáo trộn cho cơ thể
và sau đó ảnh hưởng đến da và tóc.
VAI TRÒ CỦA CÁC VITAMIN VÀ KHOÁNG CHẤT
Các vitamin và khoáng chất có ảnh hưởng đến mái tóc chúng ta rất nhiều. Tạm thời có thể chia làm hai nhóm như sau:
Nhóm vitamin tan trong nước:
Nhóm các vitamin B:
Có tầm quan trọng trong việc giữ cho tóc, da đầu và da luôn được khỏe.
Các vitamin B có trong các loại thực phẩm, nhất là ở hạt ngũ cốc, bánh
mì, rau lá xanh, các loại đậu, đậu nành, men, mộng lúa mì, thịt bò
(nhất là ở gan). Thiếu vitamin nhóm B có thể dẫn đến thiếu máu, gây ra
các vấn đề về thần kinh, viêm da đầu và da; Làm tóc bạc sớm, rụng tóc.
Vitamin C: Có trong nước trái cây (đặc
biệt là chanh), rau tươi hoặc đã được nấu chín (nhất là các loại rau
lá xanh). Nguồn cung cấp tốt nhất là quả dâu, cam, bắp cải xanh, đu đủ,
ổi, dưa hấu... Vitamin C giúp các mạch máu trở nên dẻo dai hơn, làm
vết thương mau lành và giúp cơ thể hấp thu sắt từ thức ăn. Trước kia,
khi vitamin C chưa được biết đến, tình trạng thiếu vitamin C thường xảy
ra ở các thủy thủ, gây chảy máu lợi và rụng tóc lan rộng. Vitamin B và
C là những vitamin đông. Chúng thường dễ bị phá hủy bởi các phương
pháp bảo quản thức ăn như nhiệt độ, đun sôi, chiên nóng. Ngay cả ánh
nắng mặt trời cũng như thời gian lưu trữ lâu cũng là yếu tố làm vitamin
bị phá hủy. Vì vậy nếu ăn rau luộc không nên nấu nhừ quá. Nên dùng cả
nước luộc rau vì có chứa nhiều vitamin và khoáng chất. Trái cây tươi
nên được bao phủ, không phơi ngoài không khí để tránh bị oxy hóa và gây
hủy hoại vitamin C.
Nhóm vitamin tan trong mỡ:
Các vitamin A, D, E, K đều tan trong mỡ và được vận
chuyển qua ruột nhờ các chất lipid. Khi chúng ta dùng quá nhiều, các
vitamin này sẽ được tích tụ ở gan và khó bài tiết ra ngoài.
Vitamin A có
nhiều trong các loại rau quả có màu vàng như cà rốt, dưa vàng, khoai
lang bí, đậu, lê. Ngoài ra cũng có ở rau lá xanh, trứng, sữa, dầu gan
cá, gan...
Vitamin D có trong dầu gan cá, trứng, sữa, gan. Ánh sáng mặt trời tác động trên da sẽ làm cho tiền vitamin D trở thành vitamin D.
Vitamin E có trong rau, dầu, đậu, các loại hạt, trứng, sữa, gan và thịt, nhiều nhất là ở mầm lúa mạch.
Vitamin K có
trong sữa, yaourt, gan và rau lá xanh. Ngoài ra còn được tổng hợp bởi
các vi khuẩn có trong ruột. Bên cạnh các tác dụng tốt kể trên, nếu lạm
dụng vitamin cũng có thể gây hại cho da (trong đó có da đầu), làm tóc
rụng và kèm theo các tác động nhiễm độc khác. Thí dụ dùng vitamin A
liều cao có thể làm gan lách to, dày xương, ăn mất ngon và rụng tóc.
Dùng quá liều vitamin D dẫn đến tăng calci trong máu và lắng đọng calci
toàn cơ thể, nhất là ở thận. Những ai cần dùng các loại vitamin bổ
sung? - Người đang trong thời kỳ ăn kiêng để giảm cân. - Người hút
thuốc lá nhiều. - Phụ nữ dùng thuốc ngừa thai. - Người ăn ít rau, trái
cây, người ăn kém. - Người nghiện rượu. - Người bị bất cứ căn bệnh mãn
tính nào, bị cảm lạnh kéo dài, cúm, tiểu đường, tiêu chảy, hội chứng
kém hấp thu, trầm cảm. - Người đang bị stress. Ở người bị sốt, bị nhiễm
trùng, vừa trải qua một cuộc phẫu thuật, bị phỏng nặng, ung thư thì
cần bổ sung nhiều năng lượng, protein, vitamin và khoáng chất (nhất là
vitamin C và vitamin nhóm B). Người bị thiếu máu thiếu sắt do thức ăn
không cung cấp đủ hoặc thiếu máu mãn tính do trĩ, viêm bao tử, thoát vị
bẹn, cường kinh sẽ làm tóc bị rụng. Hy vọng những kiến thức nói trên
sẽ giúp các bạn có được một chế độ ăn tốt, bảo đảm đầy đủ các loại thực
phẩm cần thiết cho cơ thể, giúp cho làn da và mái tóc luôn được óng
mượt và khỏe đẹp.
Chuyên đề 4:
.Những hiểm họa đằngsau viên vitamin.
.Trái cây tươi là nguồn bổ sung vitamin tốt và an toàn nhất.
Sự lạm dụngvitamin được xếp vào hàng báo động thứ 3 sau kháng sinh và steroid. Lượngvitamin được đưa vào nếu cao quá so với nhu cầu và khả năng hấp thụ của cơ thểsẽ tích lũy lại ở gan và gây ngộ độc. Về mặt này, vitamin nguy hiểm hơn tatưởng rất nhiều.
Vitamincũng là một loại
thuốc chữa bệnh, vì vậy, không nên sử dụng bừa bãi. Với cácvitamin tan
trong nước như C, nhóm B, PP…, nếu lượng cung cấp cao hơn nhu cầumột
chút thì cơ thể tự đào thải qua bài tiết hoặc tiêu hoá. Nhưng cơ thể sẽ
bị ngộ độc nếu các vitamin tan trong dầu bị thừa hoặc lượng vitamin tan
trong nướcquá cao so với nhu cầu. Việc dùng vitamin liều cao lâu ngày có
thể gây ra cáctriệu chứng sau:
- VitaminA: Gây
ngứa da vẩy nến, tóc khô, xơ xác, dễ gãy, chán ăn, buồn nôn,tiêu chảy,
gan to, nhức đầu, đau khớp chi, tăng áp lực nội sọ, thiếu máu…
- VitaminC: Gây tổn thương thận, dễ bị sỏi oxa, sỏi urat.
- VitaminD: Gây tổn thương thận, chán ăn, tăng canxi trong máu.
- VitaminE: Gây rối loạn tiêu hoá như buồn nôn, nôn, tiêu chảy, viêm ruộthoại tử…
- VitaminPP: Gây giãn mạch ngoại vi, bốc hoả, buồn nôn, ngứa, đánh trốngngực.
Riêngvới vitamin B1: Nếu dùng để tiêm, có thể gây sốc Thiamin, cònnếu uống liều cao thì lượng thừa sẽ được bài tiết qua mồ hôi.
Nêndùng vitamin khi nào?
Vitaminthiên
nhiên phân bố rất nhiều trong các loại rau quả, thực phẩm. Một chế
độdinh dưỡng hợp lý bao gồm đủ cơm, thịt, mỡ, cá, trứng, rau quả... có
thể bảođảm cung cấp đủ vitamin cho cơ thể. Tuy vậy, những người ăn kiêng
rất có thểthiếu một số loại vitamin, chẳng hạn những người kiêng ăn
chất béo sẽ thiếuvitamin A và D (nếu kiêng tuyệt đối sẽ làm giảm khả
năng hấp thụ hai chất nàycủa cơ thể). Những người thiếu vitamin do chế
độ dinh dưỡng không hợp lý nàycần được bổ sung vitamin.
Tuynhiên, chỉ nên bổ sung
vitamin bằng thuốc khi có các triệu chứng bệnh lý điểnhình do thiếu
vitamin nào đó. Chẳng hạn khi có triệu chứng scorbut (chảy máu chân
răng, chảy máu dướu da, mệt mỏi, vết thương khó lành) thì phải bổ sung vitamin C.
Khi bị phù thũng, ăn chậm tiêu, hãy bổ sung vitamin B1. Nếu khô da,khô
mắt thì phải uống vitamin A. Trẻ bị còi xương phải được uống vitamin D.
Một số trường hợp sau phải được bổ sung vitamin:
-Sốt cao kéo dài.
-Lao động gắng sức, suy nghĩ căng thẳng, bị các stress.
-Trong mùa nắng nóng phải làm việc, đi lại nhiều ngoài trời, mất nhiều mồ hôi.
-Suy nhược cơ thể, sút cân nhanh.
-Sau ốm, sau phẫu thuật.
-Bị
các bệnh mạn tính như viêm loét dạ dày, hành tá tràng, tiêu chảy, bệnh
đường ruột, cường tuyến giáp, bỏng, ung thư, nghiện rượu, thuốc lá, suy
thận.
-Trẻ đẻ non.
Chuyênđề 5:
.BỮA ĂN SÁNG CHO NGƯỜI
MUỐN GIẢM CÂN.
BS. ĐÀO THỊ YẾN PHI
TT
Dinh dưỡng TPHCMHầu như đã trở thành mộtphản xạ, khi người phụ nữ bất
chợt nhận ra cân nặng của mình đang "liêntục phát triển", điều đầu tiên
họ làm sẽ là nhịn ăn, và bữa ăn bị cắt giảmtrước tiên trong đa số trường
hợp là bữa ăn sáng. Sở dĩ họ chọn bữa ăn sáng làvì thực chất đây là bữa
ăn dễ bị cắt giảm nhất trong ngày. Các công việc bậnrộn và dồn dập vào
buổi sáng có thể giúp họ quên đi cảm giác đói, thèm ăn...đồng thời nơi
làm việc cũng không có saün thức ăn để mà nhấm nháp. Điều nàythường khó
khăn hơn với bữa ăn chiều và tối, khi công việc nhà đã ổn định, bànăn
thường thịnh soạn hơn, tủ lạnh thì đầy thức ăn, cảm giác đói và thèm ăn
đeođẳng cả ngày được dịp "vùng dậy" đòi hỏi, và đôi khi "tiếccủa", ăn
hết những thức ăn còn lại sau bữa ăn. Việc rảnh rỗi nằm dài tángẫu hay
xem ti vi vào buổi tối cũng dễ làm họ muốn ăn vặt thêm "một cái gìđó".
Và kết quả thường là việc tăng thêm một vài cân sau một vài tuần nhịnăn
sáng như thế.
Bữa ăn sángcó thể nói là
bữa quan trọng nhất trong ngày đối với tất cả mọi người. Điều nàyđặc
biệt đúng hơn đối với những người đang cần giảm cân. Một trong những
nguyêntắc quan trọng trong chế độ ăn cho người cần giảm cân chính là
nguyên tắc"ăn nhiều vào bữa sáng và giảm dần vào chiều tối" để tránh
tình trạngtích lũy năng lượng dư thừa do không hoạt động trong lúc ngủ.
Vì vậy với nhữngngười này bữa ăn sáng phải là bữa ăn cung cấp năng lượng
chủ yếu cho hoạt độngtrong ngày, đặc biệt là sau một bữa tối rất ít
năng lượng và cách xa bữa ănsáng 10 - 12 tiếng đồng hồ. Việc nhịn bữa ăn
sáng sẽ gây nên tình trạng mất tậptrung, giảm khả năng làm việc vào
cuối buổi sáng. Bạn đừng ngại phải ăn bữasáng trong khi đang muốn giảm
cân vì buổi sáng là buổi bạn hoạt động rất nhiều,các hoạt động đó có thể
giúp bạn tiêu hao hết năng lượng bạn đã ăn vào bữa sángvà sẽ không có
hiện tượng tích lũy mỡ dư thừa như khi bạn ăn vào buổi tối. Nếubạn đang
theo một chế độ tập luyện thể dục để giảm cân, bữa ăn sáng càng trởnên
quan trọng hơn. Các hoạt động thể lực này đòi hỏi sự cung cấp năng
lượngthật nhanh trong khi năng lượng dự trữ thường dưới dạng mỡ chuyển
hóa rất chậmđể cung cấp năng lượng. Bạn có thể bị xỉu vì hạ đường huyết
sau khi tập luyệncăng thẳng trước khi cơ thể bạn kịp chuyển năng lượng
dự trữ thành dạng có thểsử dụng được.
Nói như vậykhông có nghĩa là bạn có thể ăn thả cửa vào bữa sáng. Việc lựa chọn thức ăn rất quan trọng và thường đóng vai trò chủ yếu trong việc giảm cân của bạn. Bạn
vẫnphải tuân thủ nguyên tắc sử dụng các thức ăn ít năng lượng trong
khẩu phần,tránh các thức ăn có nhiều bột đường, dầu mỡ... như bánh chưng
(đặc biệt là bánh chưng chiên), xôi gà, hambuger, mì vịt tiềm, cháo giò
heo... Bạn nên chọn các thức ăn lỏng, nhẹ hơn như cháo huyết, bánh canh
thịt nạc, bún riêu, bún ốc,bún canh, phở tái, bánh cuốn... Thỉnh
thoảng, nên đổi bữa bằng các loại khoai củ như khoai mì, khoai từ, khoai
lang, khoai môn... Một điều cần lưu ý là ăn món nào cũng nên loại bỏ
bớt chất béo (lấy nước trong, không cho mỡ hành, hành phi, đậu phộng...)
Trong bữa ăn nên dùng kèm với nhiều rau như giá, rau muống bào, rau
chuối... và nếu có thể nên dùng thêm một ít trái cây sau bữa ăn sáng.Có
thể chọn các loại trái cây ít ngọt như dưa bở, thanh long, mận, táo...
Một món uống nhẹ không đường như sữa đậu nành, trà... cũng sẽ làm phong
phú hơn cho bữa ăn sáng của bạn.
Ngạn ngữ đã nói không sai: "Bữa ăn sáng là bữa ăn dành cho chính bạn, bữa ăn trưa dànhcho bạn bè và bữa ăn tối hãy dành cho kẻ thù". Bạn
hãy là chính mình, bắt đầu một ngày mới bằng một bữa sáng phù hợp nhất
với mình để chuẩn bị cho một ngày làm việc năng động, hiệu quả, giúp bạn
thêm yêu đời và thành công trong cuộc sống.
----
Chúc các bạnluôn vui-khỏe...NDD
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Xin goi NHAN XET ve BLOG.